Skip to content

Bài viết trong chuyên mục: Văn & Sống

Con trai lên lớp 5, được học bài thơ "Tiếng hạt nảy mầm". Mẹ yêu bài thơ quá, bèn viết ra những dòng cảm nghĩ.

(Đề bài tưởng tượng: Em hãy phân tích và nêu cảm nhận của mình về bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” của tác giả Tô Hà.
Và sau đây là bài (thử) làm của em Hạnh Rung (học sinh lớp 10) ; )

“Nếu không biết rằng, bài thơ “Tiếng hạt nảy mầm” được viết cho các em nhỏ khiếm thính, chắc, em sẽ không thể hiểu 
được ý nghĩa, và cảm nhận được niềm rung cảm cùng yêu thương sâu sắc ẩn chứa trong bài thơ đến thế.

“Mắt sáng”…

Mở đầu bài thơ, đã chạm vào hồn em hình ảnh đôi mắt học trò sáng long lanh. Nhưng, đôi mắt ấy không kèm theo một
tiếng reo, một chút nói cười, hay thanh âm thường thấy trong một lớp học. Bởi vì, đó là lớp học dành cho các em khiếm 
thính, nơi cô trò lặng lẽ trao đổi, bằng những biểu cảm gương mặt, và cử chỉ đôi tay.

“Mắt sáng, nhìn lên bảng”

Dường như, đôi mắt đã thay thế tất cả, bao âm thanh không thể nghe, bao lời nói không thể thốt, dường chỉ chan chứa vào
đôi mắt.

“Lớp mươi nụ môi hồng”

Cũng lặng lẽ như mắt, là những nụ môi hồng bé xinh của những trò thương. Trước những ánh mắt, và “nụ môi” ngoan ấy, 
cô giáo “mở lời”, và:

“Đôi tay cô cụp mở
Báo tưng bừng thanh âm”

Trước bao chăm chú của học trò, thì cử chỉ bàn tay cô được quan sát đầy chú ý. Tay cô cụp vào, như đơm kết bao chữ 
nghĩa. Để khi tay cô mở, dường bao thanh âm tưng bừng được cất lên, “báo” ý nghĩa của mình.

Khổ thơ đầu tiên, dường miêu tả những phút giây đầu của tiết học. Những câu thơ không đưa em vào sự cảm nhận âm 
thanh theo cách thông thường, mà dường như, âm thanh đã bện trong khung cảnh, nền nã, mà rộn ràng.

Khi những phút giây đầu qua đi, tiết học đang

trôi trong lặng lẽ, có lẽ, cả cô và trò đều đang chăm chú vào bài học, nên, chẳng ai biết có “cánh sẻ”, cho đến khi nó:

…"vụt qua song”

Ừ nhỉ, cánh sẻ làm sao gọi được sự chú ý của các học trò đang chăm chú kia đây. Nên, chắc, khi cô bé, cậu bé nào nhác 
thấy bóng chim sẻ, thì nó đã “vụt qua song” mất rồi. Mọi tiếng líu lo, mọi tiếng ríu rít, cũng chỉ có thể vụt qua ngang mắt 
ai đó, mà chẳng thể nghe thật rõ, thật rõ.

Vì thế, nên dù chú chim sẻ có cố tình “náo động” đến inh ỏi, thì tiếng inh ỏi ấy, cũng lại chỉ được “trông thấy” lẫn với 
“tiếng nắng” vậy.

Nắng thì có “tiếng” bao giờ. Nhưng khi tất cả đều nhìn bằng mắt, nghe cũng bằng mắt, thì ai có thể thuyết phục những 
cô bé, cậu bé không tin rằng, nắng cũng biết hót?

Câu thơ tiếp theo “Hót nắng vàng ánh ỏi”, mới đọc sẽ thấy lạ lùng ghê lắm. Nhưng cảm một hồi, lại thấy nó “thương” 
làm sao.

Khi nắng cũng muốn hót thay chim cho bé “nghe”, thì trong những ánh mắt long lanh ấy, cùng lắm, nắng cũng chỉ gắng 
sức ánh lên, thay tiếng chim, lấp lánh cho bé trông.

“Ánh ỏi”…

Thực ra, trong tiếng Việt không có từ “ỏi” riêng lẻ. Vì sự gần gũi của âm tiết, và hiệu ứng liên tưởng âm thanh, nên có 
thể, từ khi một ai đó buột thành tiếng âm thanh “inh ỏi” ấy, thì nó thực nằm trong tiếng Việt từ bấy đến giờ.

Nên, em cũng liên tưởng, khi tác giả viết đến câu thơ này, có thể, một cảm nhận nội tại nào đó cũng đã khiến nhà thơ buột 
ra “âm thanh“ “ánh ỏi”, và đặt nó đó chăng? “Nắng vàng ánh ỏi”, nó như sự hoà quyện khôn xiết giữa cái thấy và cái 
nghe, giữa “ánh” của nắng vàng và “ỏi” của tiếng chim. Chim thì có hót inh ỏi bao giờ không? Có đấy, đó là trong cái 
nghe, cái thấy và tâm hồn của những trẻ thơ, thì tiếng chim tinh nghịch inh ỏi và đầy dễ thương hoàn toàn là có. Và, bởi 
không thể nghe, nên các học trò khiếm thính chỉ có thể vừa trông, vừa tưởng tượng một âm thanh mà chúng ta không 
từng nghe bao giờ. “Ánh ỏi” không chỉ hiện lên rung động của thanh âm hoà quyện cùng ánh sáng, mà còn nói lên niềm 
ao ước khôn cùng được “nhìn” thấy tiếng chim, được “nghe” thấy ánh nắng, được nương vào mọi giác quan để cảm 
nhận thế giới xung quanh.

Và rồi thì, dù cánh sẻ vụt qua và nắng vàng có hót “ánh ỏi” ngoài song, thì các bé vẫn lặng im chăm chỉ, dõi theo làn 
môi cô giáo mấp máy.

“Các bé vẫn lặng chăm
Nhìn theo cô mấp máy”

Hai khổ thơ đầu tưởng chưa nói gì nhiều, mà đã nói thật nhiều. Những câu từ sáng trong, giản dị, mà như dẵn em vào 
trong bầu không khí lớp học. Một niềm xúc động thương thương lắm, mà em không tài nào mô tả cho hơn. Tuổi thơ của 
bé, ao ước của bé, thương yêu của cô, ao ước của cô…Tất cả, cứ chan chứa, trong từng cụp mở, trong từng mấp máy, tha 
thiết làm sao.

Và chúng ta, làm sao hiểu:

“Sau ngón tay cô đấy
Là tiếng hạt nảy mầm
Tiếng lá động trong vườn
Tiếng sớm mai mẹ gọi”

Khi tay cô cụp mở, chỉ có các bé thơ mới biết, bao âm thanh đang nở tưng bừng. Từ bàn tay của mình, cô giảng biết bao 
điều, cô kể biết bao chuyện. Từ đôi bàn tay đó, mà trẻ sẽ “nghe” thấy tiếng hạt nảy mầm, tiếng lá động nhẹ trong vườn, 
và cả tiếng mẹ gọi vào những buổi sớm mai. Bao tưởng tượng, bao hỏi đáp, đổi trao liên tục giữa đôi tay cô và đôi 
mắt bé. Bao khao khát mấp ma mấp máy, thốt lên trong những con tim.

Và, không chỉ tiếng lá, tiếng hạt đâu, còn có cả:

“Tiếng cuộc đời sâu vợi
Con tàu biển buông neo
Ngôi sao mọc rừng chiều
Vó ngựa ran vách đá”

Tới khổ thơ này, tiết học đã trôi trong sâu lắng. Nó không còn chỉ trong khoảnh khắc ấy, mà dường như, ta thấy hình 
bóng thời gian, thoắt bay qua vùng trời ước vọng, và thoắt lại trở về. Xuyên suốt nó, là niềm khao khát được nghe, trong 
sâu, trong xa, tiếng của cuộc đời.

Khi những ao ước bay cao, bay xa. Khi những tưởng tượng trẻ thơ được nâng cánh trong tâm hồn, thì;

“Bao nghĩ suy vất vả
Trong mắt người lo toan
Để từng âm có nghĩa
Bật lên từ môi em”

Để tâm hồn thơ trẻ bay cao, để tri thức và hiểu biết trao vào tay bé thơ, thì “từng âm có nghĩa” đã vượt qua vất vả, nhẫn 
nại “bật lên từ môi em”. Đằng sau tất cả những điều đó, chính là đôi mắt lo toan, là trái tim đầy nghĩ suy của cô, của thầy, 
của cha, của mẹ.

Xuyên suốt bài thơ cho đến giờ, là niềm xúc động cứ nhẹ tênh mà tới. Dù tác giả chẳng cố dùng những câu chữ đầy rung 
cảm, mà sao, em vẫn xúc động tràn đầy và thương thương đến thế.

“Nghe cánh vỗ chim non
Trước diệu kỳ tiếng hót
Giữa hồn nhiên lớp học
Ai nụ cười rưng rưng”

Khi tiết học vừa kết, cũng là lúc bài thơ đi vào khổ cuối. Lúc này, tiếng hót và vỗ cánh của chim non đã tràn ngập diệu kỳ. 
Hai câu thơ thôi, mà như sáng rỡ không gian lớp học. Không chỉ là tiếng chim ngoài song cửa, mà còn là “tiếng hót”,
“tiếng vỗ cánh” của bầy trẻ thơ như những chú chim non. Bầy trẻ hồn nhiên, hạnh phúc, vô tư. Và, giữa sự hồn nhiên ấy, 
có nụ cười bên lề, rưng rưng, và đầy tha thiết…

(5-10-2024)
Chia sẻ:
Tôi từng nghe ai đó nói: “ghét nhất là thơ”. Rồi, “ghét nhất cái...bọn làm thơ” ; )

Gần đây, tôi được nghe một nhận xét đỡ “ki bo” hơn, tức có giải thích hẳn hoi chứ không phải nêu mỗi yêu ghét.
Đại ý, thơ là cái thứ văn ít tuân thủ ngữ pháp. Thay vì viết câu cú chặt chẽ, đầy đủ thành phần, và diễn đạt ngọn ngành, 
thì “bọn làm thơ” lại dường như không đủ cái trình độ ấy, nên mới tồn tại trên đời cái gọi là thơ.

Họ nói, thì không phải là không có lý . Tuy nhiên, yêu cầu của văn khác yêu cầu của thơ. Quả thật, nếu đem cách thức của
thơ mà dùng cho văn, thì không bao giờ bài văn đạt được mục đích lẫn năng lực tối ưu của mình. Trong khi viết văn, 
người viết không thể dùng “tư duy thơ”. Ngược lại, nếu cứ khư khư “tư duy văn”, thì trên đời sẽ khó có bước đột phá kỳ 
diệu mà đẹp đẽ, của người nương hờ ngôn ngữ mà đáp hồn tới những vì sao xa, hay những cảnh tượng tâm hồn vừa sâu 
lắng, vừa cao thượng.

Tư duy văn, chính là mạch não, hay lối vận hành tư duy cùng nhãn quan của người viết trong thời điểm “vận bút” (mà 
thực chất là vận não), để trình bày cho đặng một nhân sinh quan, một vấn đề, hay sự nghĩ cảm nào đó, sao cho người đọc
có thể theo dõi và quan sát nhận thức của tác giả.

Thơ, thì có cái giống, và cũng có cái khác. Cái giống là, thông qua ngôn từ, người đọc cũng có thể theo dõi và quan sát
sự biểu đạt của tác giả. Nhưng, cái khác ở chỗ, “mạch não” của nhiều kẻ làm thơ, lại là một nẻo gần như khác hẳn. Bất kỳ
ai, khi não đang trong “chế độ” làm thơ, hay nói cách khác, là cảm xúc đương “tràn trề nhãn quan thi sĩ” , thì cái lúc ấy, 
“dẫn truyền thần kinh” đã vận hành theo cách khác rồi. Mọi chuyên chú vào sự chặt chẽ nơi cú pháp nếu không thể lắng 
xuống, người viết sẽ không thể dẫn mình vào “tư duy thơ”.

Tư duy thơ, thì ngoài tư duy ngôn ngữ thông thường, nó còn phải đáp ứng cho “khổ chủ” một năng lực tức thời, là lột tả 
đầy ắp và sống động “cảnh giới tâm hồn” mà người ấy đang ở trong. Thay cho thiên về mô tả khách thể, họ thiên về mô tả 
tình trạng cảm thức nơi mà chủ thể đang quan sát, và hoà quyện sâu sắc với khách thể ấy. Ví dụ, để mô tả sự ngập tràn 
rung động không khí, nếu viết chặt chẽ là “Không khí đang rung động tràn ngập”, thì chỉ đưa người đọc vào sự cảm nhận 
giống như “tra từ điển”, tức là tra cứu lại trong não của mình kinh nghiệm về tình trạng tương tự của không khí, sau đó, 
mới khởi lên cảm xúc nhợt nhạt. Nhưng nếu dùng “tư duy thơ”, tác giả có thể sẽ viết khác hẳn, không cần nhắc đến nửa từ
không khí, mà vẫn đưa thẳng người viết vào trạng thái ngửi hít oxy tức thời mà không hay .

Điều hay, là ở chỗ, người tác giả lại không hề vướng mình trong chủ định dẫn người đọc đi đâu, về đâu cả. Bản thân 
người ấy cũng chan chứa trong xúc cảm của mình, và chỉ đơn thuần muốn trút ra bằng lời.

Khi đó, họ sẽ không tài nào “chọn” ngôn từ theo cách vận hành của văn xuôi, tức thứ văn “xuôi dòng tư duy” được nữa. 
Thứ mà họ đang “xuôi dòng” đã phức hợp hơn nhiều. Vừa là tư duy, vừa là tâm cảm, vừa là sự huy động phi thường sức 
biểu đạt và cảm thốt, tựa hồ như “bê” nguyên một mặt hồ vào trong đôi câu chữ, “bê” nguyên một cánh chim đang đong 
cả bầu trời vào vỏn vẹn trong một góc vở, hay, “bê” nguyên một tình yêu sâu lắng không kể xiết, vào trong đôi từ bâng 
quơ bên nhau mà thôi.

Khi đó, cái tài tình là, người đọc sẽ chẳng hiểu vì sao, mà khi đọc lên những vần thơ này, mình lại có nhiều rung cảm đến 
thế. Cứ hồ như, cái năng lượng, cái rung động của tình trạng tâm mà người viết đã có, nó được hiện hài song song nơi 
người đọc, mà dường rất…chẳng tại ai vậy.

Muốn truyền đạt như thế, người viết buộc loại bỏ thật hào phóng những từ ngữ mà họ cho là “dư thừa”, chỉ chắt lấy 
những gì cô đọng nhất, hàm súc nhất. Năng lực ngôn ngữ khi này không còn giống người đi bộ hay chạy marathon nữa, 
mà giống vũ công ballet chỉ nhón trên đầu ngón chân vậy. Diện tiếp xúc với mặt đất gọn lại chỉ bằng một mũi chân,
nhưng toàn bộ vũ điệu lại thăng hoa trên mũi chân ấy. Cũng vậy, có khi, sự nương dùng từ ngữ “thoái suy” đến tối thiểu, 
nhưng rung cảm và biểu đạt lại mở đến cực đại. Mạch ngôn ngữ, hay tư duy não lúc này đã cực kỳ sâu lắng. Sự gắn kết 
và “lô gích” giữa các nhịp tri cảm không còn phụ thuộc những thành phần ngữ pháp, mà chính là mạch của tâm. Mạch 
của tâm tự đưa vào tay người viết một trật tự, khiến họ tự động chiết xuất ra những từ ngữ mà dù không nghĩ ngợi nhiều 
theo lối tư duy cú pháp, nó vẫn trật tự đầy mềm mại. Và chính mạch của tâm đó, làm nên những cây đào rất sâu vào vùng 
ngôn ngữ, khiến nhát tư duy trở nên sâu, sâu nữa, sâu nữa, mà “hệ quả” của nó lại là sự phả lên bề mặt những từ ngữ 
thanh nhẹ, mà mênh mông trắc ẩn.

Thế nên, không phải là “bọn làm thơ” không tuân thủ ngữ pháp đâu. “Chúng” tuân thủ theo một cách khác, để rồi, từ này 
xếp cạnh từ kia, âm điệu này bên âm điệu kia, tự nhiên như nhịp đập bên trong, mà cứ tự bày phơi cõi tâm, và cũng “mời 
mọc” ta phiêu phiêu theo thứ linh cảm mà khi ấy, đã chẳng còn là của riêng ai…

Giờ, ta cùng thử đọc một câu thơ của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây Tiến” mà chúng ta đã học ngày xưa nhé:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đấy, nào ai nỡ đem câu thơ này diễn xuôi cho đề huề cú pháp đâu. Vì chỉ có như vậy, nó mới đẹp, mới buồn, và ngân 
mãi trong hồn ta, phải không… 

(2-10-2024)
Chia sẻ:

Bao năm không ăn mứt sen trần, tự dưng hôm qua tôi lại thấy thèm. Đêm hôm, còn lướt mạng xem ngoài Ninh Hương Hàng Điếu như ngày xưa tôi biết, thì còn chỗ nào có mứt sen trần ngon hơn không. Ngày xưa, tết nhất muốn có mứt sen trần, bà ngoại tôi thường đi bộ ra Hàng Điếu để mua về. Mứt sen để trong làn, bà ngoại xách trên tay. Bà đi guốc mộc, cây xanh nghiêng nghiêng trên phố, có không gian be bé trú trong bóng bà, bà đi đâu, nó theo đấy, cười khúc khích với mặt đường.

Mứt sen trần ơi mứt sen trần. Ta biết vì sao ta lại thèm mi rồi. Ký ức ùa về tế nhị chưa, làm rộn quả tim ta chỉ bằng đồ ăn thức uống, bằng cái món mứt sen nhỏ như khuy áo. Cái món mứt sen là không ăn nhiều được đâu, 1 đến 2 hạt thôi, ngậm trong miệng đến tan hết đường ra, rồi từ từ ăn cái hạt sen bở bùi trong miệng, nhai nhẹ và xiết răng chậm thôi, cho ngấm đến mãn nguyện cái vùng vị giác hảo ngọt thơm trên lưỡi, rồi mới nhẹ nhàng nuốt, cho cổ họng ấp ôm sự ngọt ngào thơm dịu. Rồi nhấp một hụm trà sen. Một hụm thôi chứ không phải một ngụm đâu nhé! Một ngụm là hơi to rồi, chứ một hụm thì rất vừa phải thôi mà còn khe khẽ, róc rách tí teo ở đầu lưỡi rồi mới từ từ mướt trôi vào cổ họng, xuống với bao la cõi lòng .

Tôi thích hình ảnh những lớp sóng đại dương dâng lên oai hùng như hổ, nhưng khi hạ thuỷ đáp xuống thì êm mịn vô cùng. Như thế mới là mạnh, mới là sự ghìm giữ tốc độ và âm thanh đến độ nín thinh. Giống như khi ta nói thầm thật nhẹ. Thực ra, thầm thì càng nhẹ mà âm thanh không thều thào đứt quãng, nghĩa là làn hơi và sự làm chủ thanh âm phải rất mượt và đầy nội lực. Cũng như vậy, bao hồi ức, xúc động và suy tưởng cỡ như một bề sâu nước đại dương, dồn lên mạnh mẽ xiết bao nhưng khi chạm vào trái tim khổ chủ thì dặt dìu, êm nhẹ như nai tơ vô số tội, để chỉ hiện tướng trong tâm hồn ta như dăm hạt mứt sen trần, trong đĩa sứ nhỏ xinh, bên một ấm trà cao cao, trên một chiếc đôn cổ được sắp bày bởi đôi tay của một người con gái cũ xưa của Hà Nội, chính là bà ngoại của tôi ngày ấy.

Vâng, cái đĩa mứt sen trần.

Ngày xưa khi tôi học lớp sáu, một người thầy ngồi bên tôi, chỉ vào cốc nước chanh pha đường bên trong có vài hạt nhỏ. Thầy bảo, biết đâu, trong cốc nước chanh này là cả một thế giới. Biết đâu, mỗi hạt chanh nhỏ này là cả một hành tinh, hay một mặt trời nào. Biết đâu, phần nước trong cốc nhỏ này lại là một đại dương. Nó nhỏ với ta nhưng bao la với những gì đó khác. Nhỏ và to, liệu chỉ là phóng tưởng. Biết đâu, câu chuyện của thầy và em đã lưu đọng và tồn tại trong một đám mây, trôi tới tương lai nào đó mà ở nơi ấy, người ta sẽ nhìn thấy bây giờ của chúng ta đã là quá khứ. Thực thà, tôi không hiểu vì sao thầy lại chọn chia sẻ với đứa học trò nhỏ xíu ngây thơ như tôi những cái nhìn “siêu vi” như vậy. Nhưng quả thật, những gì thầy nói đã mở cánh cửa thị giác trong tôi. Để rồi, tôi bây giờ có cái gì đó giống thầy hệt. Bảo sao, món mứt sen trần không đến một mình. Bé như khuy áo với vài hạt đường, mà nó bê tôi ra giữa ngã bảy, ngã mười, trở về với bao không gian cũ. Tâm hồn tôi như cánh diều thả buông trong gió, như cá gặp lại dòng sông xưa, ngào ngạt thân thương.

Gấp gáp quá, mứt sen ơi, mi bắt ta nhai kỹ nhưng lại ùa về trong ta quá chừng ký ức. Ta nhớ bà ngoại ta còn trẻ, hay mặc bộ vải xoa nhã màu thật thanh tao. Bà là người phụ nữ cao nhất nhà ta đấy. Ta nhớ cha mẹ ta hồi trẻ. Cha ta cao lớn vững chãi, không già râu tóc bạc phơ như bây giờ. Mẹ ta vẫn nấm nhùn như thế, nhưng trẻ và xinh lắm . Ta nhớ meo meo tiếng mèo kêu trong xó bếp. Nhớ cụ mèo đen kiêu hùng, hay gầm gừ và thích ăn rau muống. Ta nhớ chính ta hồi bé, ngây thơ hay đeo nơ, trong veo không õng ẹo. Ôi, ta nhớ vô vàn, phù, mệt quá, chỉ nhớ thôi mà cũng mệt. Bởi ta đã trở về nó thật đấy. Mà đi đâu chả tốn xăng, huống hồ về ký ức .

Viết đến đây, đĩa mứt sen trần lách cách trên bàn xưa, như là cười nhăn nhở. Ác thật. Nó nhử cho tôi thèm, rồi nhử cho tôi nhớ ngày xưa đến te tái linh hồn, mà vẫn đâu được tọt “cái khuy” nào vào ruột.

Nhưng mà, tôi cũng không thèm xơi nó nữa đâu, bây giờ, là sắp năm 2020 rồi. Tôi đi ăn quả mơ, hàng organic, của Thổ Nhĩ Kỳ, mê hơn nhiều!

(17-12-2019)

Chia sẻ:

 

Bức ảnh này không phải của phố Hàng Đào, nhưng lại gợi nhắc ghê gớm về phố Hàng Đào trong tiềm thức của tôi.

Mẹ tôi bảo, mẹ tôi đẻ tôi tại nhà hộ sinh A, phố Ngô Quyền. Vậy là tôi sinh ra ở Ngô Quyền. Sau khi khóc lóc chào đời ở Ngô Quyền, tôi về Hàng Đào và ở đó miết đến năm 20 tuổi. Nhà tôi chếch chếch trông sang ngõ Gia Ngư, có ông ngoại, có bà ngoại, có bố, có mẹ, có 2 em tôi, và hơn 1 con mèo. “Mèo bạn” (chứ không phải “người bạn”) lâu dài nhất của nhà tôi là bác mèo đen. Bác sống 16 năm, bác đen tuyền trừ tròng trắng của đôi mắt quắc sáng tinh anh, và chùm râu cứng như cước. Trong thế giới mèo, bác hẳn là tay anh chị.

Phố Hàng Đào, ôi, biết bao thân thương, biết bao kỷ niệm. Đến nỗi, cứ nhớ về, tôi lại cảm thấy mình như con cá bé nhỏ, bơi sóng sánh trong không gian tuổi thơ. Đến mức, những hạt năng lượng của không gian đó, thời gian đó, như mưa trở về, đầy ngập hồn tôn.

Có một điều, tôi tiếc quá. Đó là dù sống 20 cái tết ở đó, nhưng chưa mùng một tết năm nào tôi chịu dậy sớm để bước ra ngắm phố.

Bọn trẻ ở phố Hàng Đào (ý là “cái bọn” làng nhàng tuổi tôi hồi đó) mùng 1 tết dạy sớm lắm. Năm, sáu giờ sáng chúng dạy, nghịch pháo tép nhức tai, làm giấc ngủ khai xuân của tôi bị quấy phá. Thế mà chúng phá không nổi. Tôi nằm nghe chúng ném pháo lép tép, chuyện trò ca hát, nào là “trên cành cao chim hót Triển Chiêu đi đón người yêu”, nào là “Maria là nhà tạo mốt”, mà mắt vẫn díp tịt. Bọn đấy sướng thật, chúng nó được tận hưởng không khí sáng mùng 1 tết trên con phố vắng tinh khôi. Còn tôi vì mải rúc vào chăn nên khi ra cửa, phố đã nhiều tiếng nói cười. Tuy nhiên, vẫn còn đẹp lắm. Vỏ pháo rắc đầy hè, hồng cả con phố, mùi pháo khen khét thơm thơm. Nhà ai cũng đóng cửa, cửa tiệm nào cũng nghỉ ngơi. Những biển số nhà thong thả đếm bên nhau. Trên hè, có những bé gái đeo nơ, tô tí son môi của mẹ, môi ngường ngượng cong cong cùng ánh mắt kiêu kỳ.

Cũng chẳng năm nào, tôi biết đi chơi giao thừa là gì. Kể ra quả hơi ngượng ????, hồi tôi bé, thấy nói “giao thừa” mà tôi cũng không hiểu nó là mô tê gì. Nhân tiện thấy bà ngoại cúng, có đặt cái ghế đẩu chổng 4 vó để đỡ 1 cái mâm, trên có con gà. Thế nào đúng lúc ấy bà đặt con dao phay cạnh đó. Cái con bé mà mẹ nó bảo là “ngây ngây như dân tộc thiểu số” bèn gật gù chắc mẩm, à, “dao thừa” chắc là cái cơ sự này đây! :))

Và, mỗi khi “dao (phay) thừa” sắp đến, ngoài phố đông vui biết bao nhiêu. Người ta ăn mặc diện, đi qua cửa nhà. Lòng tôi cứ nao nức rộn ràng cả lên. Có bữa 11 giờ khuya rồi, người đi qua đi lại đông quá rồi, mà tôi còn chúi mặt lau lau cái bục cửa nhà, nhìn rõ cả guốc giầy của người lạ. Vì nhà tôi nghỉ hàng muộn, nên mọi việc cũng xong muộn theo. Nhưng, chả sao mấy, tuy cũng thèm đi chơi, nhưng tôi vẫn vui trọn vẹn theo cách của mình. Để mấy mươi năm rồi, bữa lúi húi lau nhà đó vẫn tái hiện thật yêu thương.

Khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong tim tôi những khi năm mới đến, chính là những phút giao thừa thật sự. 57, 58, 59, 00, phố rộn rền tiếng pháo. Dù sợ phải bịt tai, nhưng mà tôi vẫn thích. Bắt đầu là 1 hồi nổ đùng đoàng, sau là mùi pháo xông khắp nhà. Tôi chạy phi lên gác, bác mèo đen cong đuôi, gầm gừ, chắc bác tưởng có binh biến, và tôi đang có hành vi náo động. Kệ, tôi phi lên gác, gọi: “Bà ngoại ơi! Bà ngoại ơi! Giao thừa rồi!”. Tôi nhún nhảy ra chiều vui sướng lắm. Bà ngoại nhìn tôi và lũ em cười thật tươi. Bà luôn dành tặng cho mọi người thật nhiều nụ cười. Nụ cười của bà ấm áp, mềm mại, thanh bình, trấn an sâu lắng những tâm hồn xao động. Trên gác của bà có ban thờ Đức Phật bày hoa thật đẹp, hương thắp thật thơm. Có những chiếc đôn gốm trải khăn ren, đặt bình hoa bà đã nắn nót cắm từng bông violet, bông thược dược, bông cúc vàng tự khi nào. Giây phút giao thừa, dù bao bận bịu, bà vẫn ăn vận trang nhã, đẹp đẽ để đón xuân, để cúng lễ, và để đem đến cho gia đình một cảm thức đẹp đẽ, gọn gàng, sáng nhẹ trong tâm. Còn tôi bây giờ, giao thừa mà tóc không bù cũng là chu đáo rồi đó ????.

Bao nhiêu năm rồi, mà nay, tôi vẫn còn thích tết. Mặc dù rất tiếc ngày xưa đã không chịu dậy sớm, nhưng đến bây giờ tôi cũng không thể nào dậy sớm được. Tôi chỉ làm được mỗi việc là nằm mơ mình dậy sớm, hoặc nhớ về những cái tết xưa, ở phố Hàng Đào, tưởng tượng mình bước ra đường vào buổi sớm mùng 1. Và tôi sẽ ngắm phố phường, chơi với lũ đồng niên hàng xóm, ngắm cái hồn phố mà nom rất giống như trong bức ảnh này cho coi! ❤

(22-1-2020)

(Ảnh trên mạng)

Chia sẻ:

Lại sắp một mùa xuân mới rồi.

Mùa xuân đúng thật là quy củ, tuân thủ tuần hoàn và đổi mới. Đúng mùa thì đến, hết mùa thì đi. Phải đi thì ngay cả một giọt mưa rớt trên hè cũng không để lại. Như người phụ nữ, đứng lên thì áo choàng, khăn, găng, túi, mũ, hay cả mùi hương cũng đều đi theo nàng. Có chăng, chỉ lưu lại chút tương tư.

Nhưng, dù có đi xa mấy, có bận làm mùa xuân cho bên kia trái đất, hay chỉ là nghỉ ngơi trong chốn thời gian. Thì đến mùa, người lại về với chúng ta, tràn đầy đổi mới.

Đấy, trên đời có gì mà ngoài quy luật đến đi, cũ mới. Thế mà lòng mình, lẽ nào còn cũ hoài vậy?

Ừ, phải rồi, hiểu rồi, nhất trí, lòng cũng phải giống như mùa xuân vậy. Phải đổi mới! Phải đổi mới!

Nghĩ đoạn, tôi mỉm cười. Một cái cười hơi mới.

Thực ra, tôi không định nói gì về mùa xuân cả. Nhưng chắc nó biết tôi đang muốn viết, và muốn tranh ít cổ phần, nên xí xọn mở rào xúc cảm của tôi đấy mà.

Thật ra tôi cũng có định nói gì đâu. Chỉ vì sáng nay, trời báo là rất lạnh, tôi tưởng cái rét sẽ khắc nghiệt lắm, ánh sáng sẽ âm u lắm, không khí sẽ sũng sĩnh những hạt mưa nhỏ xiu cơ. Nào ngờ, trời vẫn trong, nắng vẫn nhẹ nhàng, thân thiện làm sao.

Mà cũng không hẳn vì thế…

Dạ vâng vâng tôi biết tôi đang lòng vòng và đáng bực mình lắm lắm. Ủa, nhưng tôi có tội gì đâu! Thực ra tôi cũng không có biết mình định viết gì và nói gì nữa cả. Hình như, tôi thật sự là không định nói gì cả.

Ấy thế mà, tôi lại vẫn muốn nói gì đấy.

Vâng, đây đây, xin lỗi ạ. Giờ còn lảm nhảm thế này thì đến con kiến trên bàn phím cũng bỏ đi chứ ai mà đọc nữa. Nên có nói không được thì tôi cũng phải cố mà nói cho được.

Dạ vâng, thực ra thì không phải là không có gì để nói đâu, là rất có ấy chứ, chỉ có điều, là không biết nói cho ra thế nào, tả cho ra thế nào. Nó, nó là tại, tại bỗng thấy yêu, yêu mới mẻ, yêu nhẹ nhàng trời đất, dạ vâng, cả con người nữa, dạ vâng, cả chính mình nữa. Ôi, vội quá, độc giả sắp đi hết rồi, thôi để cho nhanh thì, thì tôi sẽ viết đại một bài thơ ngay đâyyyyyyyy!

Em ơi, thấy chưa nào
Đất trời tha thiết lắm
Tình yêu luôn nồng thắm
Trong dù một nhành hoa

Nào, lại định cãi ta?
Mắt trời trong trong lắm!
Lòng trời cao thăm thẳm!
Bao la là nghĩa ân!

Mau, giờ hãy ân cần
Nâng niu từng hơi thở
Nhớ đấy, đừng để lỡ
Một giây khắc để yêu

Mau, hãy biết ơn nhiều
Từng mối manh sự sống
Thấy chưa nào, tích cực
Là chìa khoá trời trao!

Mở gì phải hỏi sao?
Hmm
Để mở lòng thanh thản
Để cởi tâm ngã mạn
Và buông những khổ đau

Để hào phóng cho nhau
Yêu thương và san sẻ
Để nụ cười không mẻ
Cười xem nào, he he
he he, he he he

Hehe, hehehe
Hehe, hehehe
Haha, hahaha
Haha, ha ha ha : )

Năm mới, chúc tất cả mọi người luôn tích cực, tích cực, và hạnh phúc ạ! ; )

(8-1-2021)

Chia sẻ:

John rất trẻ, là sinh viên máy tính, và rất thích vẽ. Anh có vóc dáng khoẻ mạnh, vận đồ đơn giản, nhưng luôn lủng củng bên mình nào bút chì, giấy, toan, bút lông, màu vẽ.

John vẽ nhiều, và không cầu kỳ. Anh không mải chọn những người, vật thể hay khung cảnh đẹp. Anh đơn giản vẽ những gì mình thấy, hoặc mình nghĩ. Đôi khi, anh vẽ nhanh như gió, tựa như đuổi bắt tĩnh trong động. Nhưng cũng có lúc, John chậm rãi hơn một đồng hồ cát, như trong màn phim quay chậm. Người ta cảm thấy John có một nhịp thời gian riêng.

Những bức vẽ của John xếp đầy trong căn phòng ký túc xá, và thường xuyên phải mượn sàn của bạn học Peter để dựng. Có lần, Peter vấp phải bức tranh cụ già Laura ở viện dưỡng lão. Cụ Laura chừng bảy mươi. Cụ hay ngồi ghế đá trong khuôn viên nơi gần trường đại học của John và Peter. Trong bức vẽ của John, cụ Laura vận bộ đồ của viện, tai đeo đôi khuyên hình bông hồng, trên đầu là chiếc mũ dạ xanh, trên vành có thêu một con chim nhỏ. Đôi cánh của nó như sắp bay dưới làn nắng nhẹ trong khuôn viên.

John hay chạy bộ dọc bên sườn khu viện dưỡng lão này, và thường hay dừng lại ở khuôn viên nhỏ ngoài cổng sau của viện. Ở đây, anh thích ngồi chiếc ghế quen thuộc, nếu thích, sẽ giở toan ra và vẽ.

Một cách chủ quan thì, Peter không cho rằng đó là một nơi rất đẹp để vẽ. Theo cậu, xung quanh đó còn có những nơi đẹp và thi vị hơn. Chỉ bởi vì gần nhất nên cậu thường tới để chạy bộ. Mỗi khi tới và thấy John ở đó, cậu lặng yên cho bạn vẽ, hoặc đơn giản là ngồi trên ghế. Peter đoán, chắc là cậu ấy ngắm nhìn những chú chim câu lạch bạch thật thanh bình, thảng hoặc lại vỗ cánh, bay lên một đoạn. Chúng chẳng bao giờ bay đi đâu xa cả, luôn loanh quanh lúc thì vệ cỏ, lúc trên thanh ghế, lúc lại nhỏ nhẻ theo sau bóng người. Có vẻ, chúng rất quen nơi này. Peter thường thấy John huýt sáo gọi chúng.

John thích những màu sắc cho cảm giác thanh bình, niềm vui và hy vọng. Anh không chao tâm bởi lớp vẻ đẹp thoả mãn cặp mắt. Với anh, một chiếc lá xanh rất đẹp, và một chiếc lá khô cũng thế. Mỗi khi anh nhìn, sự vật in vào tâm hồn anh nhanh hơn cặp mắt. Và bởi rất yêu đời, John thấy tất cả đều đẹp đẽ và hàm xúc. Sự tận tuỵ của một cô y tá, mái tóc bạc của vị thầy giáo già, bàn tay đỡ lưng con của một người mẹ, hay chiếc cằm non nớt của những em bé, tất cả đều lần lượt có mặt trong những bức tranh của John.

Một đợt, chiều nào John cũng ra vẽ nơi khuôn viên sau lưng viện dưỡng lão. Cùng một ghế đá, cùng một góc nhìn. John mải mê, chăm chú và đầy cảm hứng. Khung cảnh không đặc biệt hơn mọi ngày, vẫn đám bồ câu lạch bạch, những vạt cỏ xanh màu nắng hanh và gió nhẹ. Xa xa, sau lưng John, Peter không thấy những nét cọ của anh bắt đầu từ giữa khung tranh. Hình như anh không vẽ vật gì cụ thể. Trái lại, nét cọ lúc rộng rãi khoáng đạt, lúc xoáy sâu nho nhỏ, khoan thai đều đặn trên mặt toan. Có điều, Peter không thấy nó giống khung cảnh của khuôn viên, mà chỉ là những mảng và vệt màu trên khắp bức tranh. Dù không hiểu lắm, nhưng Peter cũng thầm thấy rằng những gam màu đó thật sự rất đẹp. Peter gật gù, trước khi trông thấy một cô gái nhẹ bước tới chỗ bầy chim. Cô cho đám chim ăn một ít thóc rồi lại đi. Trời càng về chiều càng thiết tha. Nắng chùng xuống lòng người và gió nhẹ nâng niềm rung cảm. John vẫn mải mê trước những sắc màu như sự sống nở ra trong từng nhát cọ. Đâu đó những chấm nhỏ to như những chú chim câu đang ăn thóc. Peter quay về ký túc xá đọc sách.

Mấy hôm nay, trong khu viện dưỡng lão nhận một nữ điều dưỡng mới. Sophia 23 tuổi, đến từ miền nam. Cô mảnh dẻ, tóc màu nâu và quấn trễ sau gáy. Sophia ít nói. Ngày đầu tiên tới viện, ngoài những giao tiếp cần thiết, cô không nói gì thêm. Nhưng, cụ Laura thì nói rất nhiều. Cụ bắt quen với cô gái mới và nói rằng hồi trẻ cụ có rất nhiều chàng trai theo đuổi, dù một thỏi son cụ cũng chưa bao giờ dùng. Cụ thích trồng hoa hồng, uống trà và tập thái cực. Một người bạn của cháu trai cụ là người Trung Quốc, dạy cho cụ thái cực và nếu muốn, cụ sẽ dạy lại cho cô. Sophia nhẹ cười và dắt cụ ra sân ngồi hóng nắng. Cụ Laura thư giãn trên ghế, nắm bàn tay của Sophia, mắt lim dim tựa hồ đang nghe một bản nhạc. Chiều muộn, khi xong xuôi các việc, Sophia lại ra khuôn viên sau lưng viện cho đám bồ câu ăn. Hôm nay trời sẩm sớm, chẳng còn mấy ai nán lại khuôn viên.

Ngày lại ngày, cụ Laura trở nên quen thuộc với Sophia. Dù không nói nhiều, cũng chẳng hài hước, nhưng Sophia luôn làm cụ thấy dễ chịu. Bàn tay Sophia gầy guộc, ngón tay dài không mang một chiếc nhẫn, thường chải tóc cho cụ Laura. Mỗi khi dắt cụ ra ngoài hóng gió, Sophia không quên đội thật nhẹ chiếc mũ len thêu hình con chim lên mái tóc ngắn, quăn nhẹ và bạc màu của cụ. Có những hôm rảnh việc sớm, Sophia tranh thủ ra khuôn viên sau viện cho chim ăn sớm. Và ngày nào cũng thế. Lũ chim ngày càng quen với cô. Những chiều khi Sophia chưa tới, chúng tập hợp quẩn quanh, không một con nào bay đi đâu, lạch bạch quanh vệ cỏ, cho đến khi nghe thấy tiếng bước chân Sophia thở trên mặt đất, thì xôn xao vỗ cánh.

Chiều hôm ấy, như mọi ngày, Sophia đến bên bầy chim, ngồi tựa gối xuống bệ cỏ, lấy một nắm thóc từ trong túi áo và rắc quanh cho chim ăn. Bầy chim ăn xong nhảy lên vai, lên tay cô. Sophia cười với chúng, nụ cười ấm áp và tươi sáng.

Chiều hôm qua, như mọi ngày, Sophia đến bên bầy chim, ngồi tựa gối xuống bệ cỏ, lấy một nắm thóc trong túi áo, và cho chim ăn. Lũ chim đi quanh cô, lạch bạch, thanh bình.

Chiều hôm nay, như mọi ngày, Sophia lại đến với bầy chim. Ngày mỗi ngày, nối tiếp như hơi thở. Lũ chim và cô gái trở thành một phần linh hồn của khu công viên. Từ bao giờ, nụ cười của cô đã đem đến một sắc màu không thể thiếu. Nó chan vào không gian, hoà trong tia nắng và niềm rung cảm. Khi tất cả đã về, lũ chim tản đi tìm chỗ ngủ, John cất toan vẽ, lặng lẽ trở về ký túc. Xa xa sau lưng anh, Peter cũng âm thầm quay gót.

Những bức tranh đầy dần trong căn phòng của John và Peter. Có một chỗ để xếp riêng những bức tranh gần đây nhất. Đó là những bức tranh về bầy chim và một cô gái. Cả bằng chì lẫn màu nước, cả trên giấy, lẫn nhiều tấm toan. Peter không xem chúng, nhưng anh cảm được điều gì trong đó.

Cụ già Laura gần đây ít thích ra sân hóng gió. Thay vào đó, cụ bắt đầu thói quen nghe đọc sách. Người đọc sách cho cụ là Sophia. Cụ và Sophia ngày càng thân thiết. Với cụ Laura, Sophia chuyện trò cởi mở và vui vẻ. Một buổi sáng, cụ theo Sophia đi dạo ra chỗ bầy chim. Sáng đó, ở bên bầy chim là một chàng thanh niên. Với thóc trên tay chàng rắc cho đám chim ăn. Nghe tiếng cụ Laura, chàng thanh niên đứng dậy và xoay người lại. Chàng có đôi mắt xanh và rất tình cảm. Đó chính là Peter.

Đêm ấy, ở nơi viện dưỡng lão, Sophia cầm bút chì trên tay. Màn đêm như nghe thấy tiếng thở của cô, chốc thì nhanh, chốc như dừng lại. Trên chiếc bàn nhỏ, cuốn sổ im lặng đón từng nét vẽ của Sophia, như trái tim cô gái mặc nhiên đón từng rung cảm kỳ diệu. Từ trong cuốn sổ, ánh mắt người thanh niên dâng kín hồn cô. Đêm sâu dần, Sophia khẽ ngân câu hát:

"Anh không đến từ bên ngoài
Em khẳng định, anh vốn ở bên trong
Em không thể chứng minh
Cũng chẳng thể làm gì
Ngoài bất động trong khoảnh khắc ấy"

Có ánh sáng nhẹ từ chiếc điện thoại di động. Là tin nhắn chúc ngủ ngon của cụ Laura. Trừ Sophia, có lẽ, tất cả cũng đã ngủ.

Ngày hôm sau, bầu trời khoan thai sáng. Giờ khắc cũng nhịp nhàng mà trôi. Khu viện dưỡng lão mau dần tiếng nói, tiếng cười, tiếng ho, và tiếng phàn nàn. Ai đó đã nhiều đêm không ngủ. Ai đó mắt ngày càng kém đi. Ai đó lưng đau chẳng buồn nghe chim hót…Sophia lại tận tuỵ với những công việc hàng ngày. Đâu đó ngoài kia, những cánh bồ câu lúc xa, lúc gần, thanh thản bay qua.

John quan sát mãi hai chú chim đang ngồi cạnh nhau trên ghế đá. Trong khuôn viên lúc này, chỉ có John, bồ câu, cây, cỏ, ghế, nắng, và gió. Cũng có lẽ còn có ai khác nữa, nhưng nỗi cô đơn lớn quá, khiến John thấy điều đó không quan trọng. Anh không khẳng định mình đang trông đợi điều gì, cũng không giở toan vẽ như mọi ngày. Chỉ dừng chân trước hai chú chim ngồi cạnh nhau trên ghế, và cũng không lấy làm đặc biệt sao chúng ngồi lặng im lâu như vậy. Khuôn viên khoan thai thổi những đợt gió thu vào lòng ai không báo trước. Kẻ vẽ vời chẳng thiết tha cầm bút, chỉ thấy trôi vào sắc màu xanh ngát của tình yêu không tên. Nó tự do và không trói buộc, nó mạnh mẽ nhưng khiêm nhường, như cơn gió dạt dào lặng im bên nhánh cỏ, như màu trắng ngập tràn tô khẽ những bông hoa, như sắc xanh thăm thẳm nhẹ đơm mầu cho những chồi non. John gạt bỏ mọi sự cắt nghĩa, ngay cả nỗi đơn độc cũng mặc nhiên tồn tại.

Mấy hôm nay, Sophia không đến cho chim ăn. Viện dưỡng lão tổ chức chuyến đi dã ngoại cho những người già. Cụ Laura phấn khởi và nói thật nhiều. Ở viện, cụ là cụ bà hóm hỉnh duyên dáng, và thường hay kể chuyện vui cho tất cả. Cụ thường khẳng định mình không cô đơn. Cũng có những người tin điều ấy.

Kể từ hôm gặp gỡ với Sophia, Peter có một chuyến đi thực tập xa, nên không còn tới khuôn viên nữa. Khuôn viên vắng vẻ nhiều. Lũ chim vẫn quanh quẩn nhưng có chút gì ngơ ngác. Và một ngày của nửa năm sau, Peter trở về. Buổi sáng đầu tiên, anh đi bộ qua viện dưỡng lão, rồi hướng tới khuôn viên nơi cổng sau. Công viên ngập nắng vàng và chim câu vẫn sum vầy thanh thản. Trên ghế đá phía trước mặt, một đôi bạn ngồi bên nhau. Peter nhận ra John, và cô gái anh gặp nửa năm trước. Dù chỉ từ phía sau lưng, nhưng anh không thể không nhận cô gái đã sống cùng tâm hồn anh trong suốt chuyến đi. Một chút ngập ngừng, Peter toan bước đi, nhưng lũ bồ câu bất ngờ vỗ cánh khiến John và Sophia cùng quay lại. Lặng im trong giây lát, ba người cùng bước tới, rồi John cất tiếng: “Đây là Sophia”.

Thêm một chút lặng im, John mỉm cười, và lùi bước ra đi.

Sau lưng anh, đám bồ câu thanh bình dạo bước bên nhau. Khuôn viên xa dần, niềm cô đơn cũng thế. Mọi sự cắt nghĩa đều không quan trọng, khi với một người, nó đã ở phía sau lưng. Còn lại trong John là dư vị của tình yêu, khoan thai xâm chiếm một tâm hồn.

(25-12-2018)

Chia sẻ:

Người ta bảo, mỗi người đều có một linh hồn. Cả cô mèo Maica cũng thế, và chú chó già Lula cũng vậy.

Nhưng mỗi linh hồn không hẳn chỉ nằm trong người đó. Khi người ấy đi, linh hồn cũng đi. Khi người ấy đứng huýt sáo, nằm ngủ gật, ngồi bên cửa số hát ca, hay chạy tung tăng chơi diều, chắc chắn, một phần linh hồn của họ cũng đang như vậy.

Nhưng, đó chưa phải là tất cả.

Rất nhiều khả năng, tất thảy chỉ là những phản ảnh từ một chiếc máy chiếu. Nghĩa là, nếu thử cố nói cho cụ thể, thì những gì ta thấy chỉ là hình ảnh mà thôi. còn thì linh hồn “thực sự” của một người có khi lại đang ngồi chống cằm trên một vì sao.

Mary, một cô bé ưa tưởng tượng, cứ âm thầm cho rằng như vậy, và rất băn khoăn không biết điều mình nghĩ có đúng không. Cô bé trăn trở trong rất nhiều buổi học, ngay cả khi cùng chúng bạn vui chơi, những lúc chiều tà ngồi ăn bánh crepe cùng bố mẹ và mèo Maica, và tất nhiên, là trong mọi đêm có sao. Hễ ban đêm có sao, cô bé không thể không ngồi bên cửa sổ, ngắm chúng say sưa, và tưởng tượng bao điều.

Một hôm, khi Mary đang ngắm sao, một ánh sáng lung linh bạc bất ngờ rơi xuống. Nhưng nó không rơi thẳng và thật nhanh, mà chầm chậm như trong phim quay chậm, và mềm mại như nước, thấm từ từ xuyên qua những vòm mây, rót nhẹ nhàng vào một lỗ hổng bé tí trong một đám mây đang lừ đừ bay, rồi từ đó chảy xuống, uốn éo, điệu đà. Lúc gần tới tán cây táo trong vườn của nhà Mary thì đụng phải làn gió, bèn nảy nhẹ pưng pưng như bóng bay, xong rồi thì cũng rơi hẳn xuống chui tọt vào một trái táo đang chín dở. Mary ngồi im như tượng, mãi mới nhớ ra phải chớp mắt.

Từ hôm ấy, Mary như người nắm giữ một bí mật. Cô bé dành rất nhiều thời gian đến bên cây táo, ngắm nhìn “trái táo kỳ diệu” nửa xanh, nửa chín tròn xoe trên cây.

Mãi, rồi cũng đến một hôm, trái táo tự dưng bật ra một tiếng ngáp, như một kẻ ngái ngủ vừa bị đánh thức. Mary tròn xoe mắt. Trái táo tảng lờ ngáp tiếp một hồi. Rồi thì cũng cất lên vài ba âm thanh làu bàu gì đó.

Mary không hiểu trái táo nói gì. Cô bé đâu biết nói ngôn ngữ của trái táo. Trái táo cứ tiếp tục làu bàu trong khi Mary không hiểu gì cả. Với sự tò mò hết cỡ Mary trở nên bối rối hơn bao giờ hết. Những muốn chạy đi tìm ai đó phiên dịch giúp nhưng lại nhớ ra rằng không ai làm được điều đó. Mary chẳng biết làm gì ngoài việc thình lình ra dấu suỵt để trái táo khoan đừng nói tiếp vội. Lúc này, trái táo mới chịu mỉm cười với cô. Chiếc lá xanh trên cuống ngọ nguậy, cố vươn dài ra như là đang gắng chỉ vào vị trí trái tim trên thân mình tròn căng mụp mạp của mình. Mary gật gật như chừng hiểu ý: hình như, nó nói với mình hãy nghe nó bằng trái tim? Thế là, định thần trở lại, thôi việc tự làm mình rối trí bởi sự khác biệt ngôn ngữ, Mary bắt đầu “lắng nghe bằng trái tim” câu chuyện của trái táo…

Chuyện là thế này, rất đơn giản thôi. Thực ra, Mary không nắm giữ bí mật gì lớn lao cả. Mỗi ngày giờ phút giây, thậm chí còn nhanh hơn cả phút giây, thì trong vũ trụ to lớn này đều có vô vàn sự di chuyển của ánh sáng. Có điều là Mary và nhiều người khác không thấy được điều đó. Thậm chí, thực ra cũng chẳng hẳn có một sự di chuyển, mà đơn giản là những ánh sáng cũng liên tục thở và rung động. Nó chẳng bó buộc bởi không gian, nên rung động và co giãn vô cùng linh hoạt. Cho nên, việc ánh sáng từ vì sao chảy xuống một trái táo chẳng có gì là trọng đại cả. Nhưng, suỵt nhé, cũng to tát lắm đấy. Hẳn rồi, nhất là lại chính là trái táo này chứ không phải một trái táo khác.

Mary lắng nghe câu chuyện nghiêm túc như một nhà thám hiểm. Không dám ngắt nửa lời, Mary đã kìm tận mấy tiếng ho. Trái táo tiếp tục:

– Nhưng có một bí mật dành cho cô bé đấy.

– Là gì? Là gì vậy?

– À…ờ…là tôi!

Mary nôn nóng quá, thế mà trái táo cứ không chịu nói thật là rõ ràng. Thay vào đó, trái táo mỉm một nụ cười thật đẹp. Mary không chịu nổi nữa. Cô bé đặt 2 bàn tay lên ngực mình nơi trái tim, nhìn trái táo như năn nỉ.

Trái táo bỗng rớm lệ, xúc động. Mãi, mới lại chạm chạm chiếc lá xanh trên cuống của mình vào nơi trái tim, rồi nói: Tôi là linh hồn của bác Henry hàng xóm nhà cô đấy!

Mary ngẩn người. Trái táo tiếp tục: Mỗi người đều có linh hồn, cô bé ạ. Linh hồn thì không chỉ nằm trong người ấy. Một phần nó ở trong người ấy, phần khác thì ở trên một vì sao nữa, hoặc trong một trái táo, hoặc trong cả một vì sao lẫn một trái táo cộng lại, tuỳ thích. Mà cô thấy đấy, đến lượt nó, một trái táo lại có linh hồn của mình. Cứ thế, cứ thế, trên khắp vũ trụ này, linh hồn tiếp nối, đầy ắp không gian, đôi khi lồng vào nhau như những con lật đật.

Ừ thì, nói một cách khác, tất cả chúng ta đều có linh hồn, nhưng chúng không thực sự ngăn cách. Cô bé không thể tìm ra một linh hồn ngăn cách đâu. Cụ thể hơn nữa, tất cả linh hồn đều có chung một linh hồn. Thôi thôi, tôi không thể nói cụ thể hơn nữa…

– Xin bác đấy, Henry! Mary bật lên thành tiếng.

“Trái táo Henry” mỉm cười. Cô bé ạ. Cớ gì cô muốn tôi nói thật kỹ những điều mà chính tôi cũng còn không biết.

– Vậy sao bác biết những điều bác vừa nói?

– Tôi được một âm thanh rỉ vào tai. Nhưng nó thì đi rồi.

– Vậy có gì đáng tin?

– Có những điều chúng ta không thể tới được bằng sự nghi hoặc. Thôi được rồi, tôi hiểu cô cảm nghĩ gì. Lời đáp sẽ dành cho những ai sẵn sàng. Đêm đã khuya rồi, cô bé hãy vào nghỉ ngơi.

– Không, bác Henry, cháu không muốn ngủ. Cháu không thể ngủ.

Trái táo ngáp một hơi thật dài, rồi im bặt. Mary cố đợi xem trái táo còn nói năng gì nữa không. Nhưng chỉ còn màn khuya tĩnh mịch. Có lẽ bác Henry đã ngủ. Mary về giường của mình, ngủ một giấc sâu đến sáng.

Chiều hôm sau, vừa tan học là Mary chạy vội đến bên cây táo. Cả món bánh crepe và bánh quy mới nướng thơm lừng của mẹ cũng không thể làm xao nhãng cô bé. Cứ thế mỗi chiều. Nhưng mãi mà chưa thấy trái táo nói năng gì như hôm trước.

Bác Henry là hàng xóm của Mary từ trước cả khi cô bé sinh ra. Bác trồng nho và có bộ râu quai nón rất đẹp. Bác yêu thích trẻ con, nhưng vợ chồng bác không sinh đứa con nào cả. Bác có một đứa cháu trai con của em gái, nhưng nó được gửi đi học ở trên thành phố và chỉ về thăm bác trong một vài ngày nghỉ. Từ hôm biết được bí mật về “linh hồn của bác Henry”, Mary rất hay quan sát bác từ xa, nhưng lại tránh né việc sang nhà bác chơi để được đem về những chùm nho như mọi khi. Dường như, cô bé muốn duy trì một sự không rõ ràng nào đó, dường như, cô tránh né việc nhận thêm những thông tin có thể làm cô lộn xộn và mâu thuẫn với trái táo. Những e ngại đó chưa chắc cần thiết, tuy nhiên, nó giúp Mary không tự làm mình rối bời thêm ít nhất là trong lúc này.

Bác Henry vẫn vậy, kể từ khi Mary biết được mối liên hệ bí mật của bác với trái táo. Bác dường như không biết gì cả. Bác cũng không có bất kỳ thay đổi nào. Sự thay đổi là ở cách Mary nhìn bác. Nhiều lúc, từ bậu cửa sổ nhà mình, Mary như chụp ảnh bằng mắt những dáng đi, đứng, cúi, ngồi từ xa của bác, cách bác đút cho chú chó già Lula ăn những thìa sữa. Đôi khi, bộ râu quai nón của bác cũng cuốn Mary vào một sự tưởng tượng mạnh mẽ.

Một ít hôm sau, trái táo nửa xanh nửa chín vẫn lúc lỉu trên cây. Có điều, phần xanh thay dần bằng một màu chín ửng. Ngày nào Mary cũng đến bên chờ được chuyện trò, nhưng trái táo vẫn lặng im không có lấy một tiếng ngáp. Mary quan sát độ chín dần của trái táo mỗi ngày, và bỗng thoáng giật mình. Hẳn phải có sự thay đổi nào với bác Henry? Sẽ ra sao khi quả táo chín hẳn? Ta phải ngăn không cho con sâu nào đến được trái táo này.

Một chiều về, Mary nghe mẹ nói bác Henry bị ốm. Bác sĩ nói quả tim bác ấy đập không tốt, khiến bác Henry phải nằm bệnh viện. Mary hốt hoảng ra vườn kiểm tra trái táo. Cô bé nghển cổ nhìn thật kỹ và thấy nơi trái tim có chút thẫm màu. Quả táo gần chín hẳn rồi. Mary hoang mang quá, một người sẽ thế nào khi linh hồn của người ấy rất chín? Dù không rõ thế nào, nhưng cô bé không khỏi lo lắng. Cô bỗng thình lình nắm tay cầu nguyện. Cô cầu nguyện rất lâu, chốc chốc lại hé nhỏ mi mắt nhìn xem trái táo có thay đổi gì không.

Cầu nguyện một lúc thì mẹ gọi về ăn tối. Trong cả bữa tối Mary vẫn thấp thỏm không ngừng về trái táo và bác Henry. Cô bé thực sự bồi hồi và căng thẳng. Đôi lúc muốn thốt ra bí mật nhưng lại tự mình ngăn lại. Xong bữa tối, cô lại đến bên trái táo và tiếp tục cầu nguyện.

Sang ngày hôm sau, bất chấp mọi cầu nguyện của Mary, trái táo vẫn chẳng xanh trở lại. Thực sự, nó đang chín rất đẹp và còn thơm nữa. Nhưng Mary lại không muốn điều đấy. Cô bé cứ thấp thỏm lo âu. Cô bé băn khoăn, khi trái táo chín, nếu bố mẹ không hái xuống thì nó cũng sẽ rụng và rơi bịch xuống, và rồi điều gì sẽ xảy ra?

Buổi chiều, bệnh viện báo tin tình trạng bác Henry rất tệ. Đứa cháu trai ở xa đã về thăm bác. Mary không dám theo mẹ đến thăm bác. Cô bé cứ quanh quẩn suốt bên cây táo mỗi khi có thể. Đôi khi Mary như van nài trái táo hãy ngáp và nói chuyện với cô. Tối hôm ấy, khi đồng hồ điểm chuông bảy giờ, trái táo đã rơi xuống thật. Nó rơi xuống đám chăn gối mà cô bé đã bày sẵn bên dưới. Trong khi nửa giật thốt mình nửa nghe ngóng xem nhà bác Henry có tin tức gì không, Mary vội vàng đem quả táo về phòng đặt vào giường. Cô bé lắp bắp cầu nguyện mà chẳng thốt ra nổi câu nào rõ ràng. Cô run lên đến độ không biết làm gì hơn, bèn hai tay nâng trái táo lên đặt gần miệng và thổi thổi nửa như vỗ về nửa như động viên trái táo hãy cố gắng. Rồi thì, cô bé ôm luôn trái táo vào lòng. Hình như người ta nói, khi một ai đó nhận được lòng tốt và tình thương yêu, quả tim người đó sẽ vô cùng sáng rỡ và hạnh phúc.

Bố Mary từ bệnh viện điện thoại về nói, bác Henry sẽ phải trải qua một cuộc phẫu thuật rủi ro vào đêm nay.

Đêm đó, Mary không ngủ. Trái táo nằm trên chiếc gối của cô.

Sáng hôm sau, nó vẫn nằm như vậy. Chim hót ngoài vườn và ánh nắng vàng ngập tràn cửa sổ. Gần sáng, Mary đã thiếp đi bao giờ không hay. Mở mắt, cô bé nhìn ngay trái táo, nó vẫn nằm đấy, vẫn đẹp nhưng khô hơn một chút.

Mary chạy thật nhanh đi tìm mẹ để hỏi về bác Henry. Thật bất ngờ, mẹ nói bác Henry phẫu thuật thành công và sẽ sớm hồi phục. Mary sung sướng trong xúc động, cô bé chạy về phòng, òa khóc như một cơn mưa. Mary quên bẵng tất cả cho đến khi nghe tiếng mẹ rầy la về việc đem chăn ra vườn chơi. Như sực tỉnh, Mary chạy ra vườn, nhìn lên cây. Chỗ của trái táo giờ trống không, với lá và nắng quấn quanh nhau. Chạy về phòng nhanh hết sức, trái táo vẫn ở đó, chín đỏ và thơm một mùi hương thật dễ chịu. Trái táo không ngáp, cười hay nói điều gì. Nhưng giờ thì, Mary không chờ điều đó nữa. Ở thật sâu trong trái tim, cô và trái táo hiểu nhau là đủ. Có những điều, người ta không bao giờ tới nổi bằng sự nghi hoặc. Liệu có ai tin rằng, trong giây phút sướng vui oà khóc, một âm thanh thật minh bạch đã đi thẳng vào tim Mary và nói rằng: môt phần linh hồn của bác Henry giờ đã di cư đến một vì sao khác. Còn một phần sẽ thức dậy khỏe mạnh vào sớm mai trong thân thể bác. Âm thanh giải thích thêm với Mary: Chẳng linh hồn nào là khu biệt và cố định. Nó vẫn rung động, hít thở, và di chuyển hoài như vậy mà ta không hay biết, trong ngôi nhà vô định kết bằng ánh sáng của mình. Có thể, linh hồn của bác Henry từng ở trong trái táo trong vườn nhà Mary, nhưng bởi trái táo còn phải chín, rụng xuống, và được ăn nữa, nên khi thời khắc tới, nó sẽ chuyển tới một chỗ tương hợp hơn. Cũng có thể, một lúc nào đấy, linh hồn bác Henry lại ở trong một chậu hoa. Hãy nhìn xem, áng mây kia đang bay, biết đâu lại là linh hồn của một cuộc đời xa tít trong một tương lai xa xôi. Có thể, giọt mưa rơi trên tay ai hôm qua, lại là niềm xúc động sâu xa của một dòng sông chưa từng nghe nói đến. Cũng có thể, những cánh diều trẻ thơ đã muôn lần nâng đỡ những linh hồn suýt ngã. Tóm lại, mà cũng không thể tóm lại, thì tất cả chúng ta đều có linh hồn. Ở trong một thời đoạn, ta thấy chúng xanh, hay chín. Nhưng khi ta bỏ quên một việc làm lẩn thẩn là đong đếm thời gian và không gian, thì, Mary thấy đấy, chúng là mãi mãi và toàn khắp, phải không? Quan trọng, mọi linh hồn đều khát khao được vun tưới bởi yêu thương và lòng tốt. Khi chưa nhận đủ, linh hồn sẽ hờn dỗi và dễ sa ngã lắm. Nên chúng ta hãy cùng nhau vun tưới thật nhiều, thật nhiều nhé, Mary.❤️

(3-12-2018)

Chia sẻ:

Miyoko tuổi gần 30. Cô có chồng, 2 đứa con, và một thân hình nhỏ nhắn.

Hồi nhỏ, cô ước ao được múa. Nhưng ước ao này huyễn ảo hơn là thực tế. Thực tế, cô chưa bao giờ thử kiễng chân lên như một người múa. Cũng chưa bao giờ để mặc những gót chân nhún lên theo những điệu múa trong tưởng tượng. Miyoko nhỏ nhắn đến mức tự cho rằng mình không thể nào sẵn sàng cho việc tìm đến một người thầy để xin học. Càng không phải một cô gái để đứng trên sân khấu, phô diễn tâm hồn đầy thăng hoa trong những điệu múa, và hoá mình tuyệt đối trong một tình yêu mãnh liệt, nơi có những người xem mà cô sẽ đầy biết ơn.

Thực tế, cô là một thợ may. Bàn tay nhỏ nhắn giúp cô khéo léo với những đơn hàng nhỏ lẻ. Cứ như vậy cô sống. May vá, giặt là, chợ búa, dọn dẹp… là cuộc sống của cô. Những bữa ăn với người chồng và hai đứa con. Những con đường khi mưa khi nắng, dưới những tán anh đào xuyên suốt bốn mùa để đem đồ may tới cho khách hàng, là bức tranh thường nhật của Miyoko.

Một ngày, đoàn múa Mặt Trăng lần đầu đến với Kyoto. Miyoko được hẹn đem đồ may đến cho một vũ công. Đoàn múa Mặt Trăng nghèo, nhỏ, và khiêm tốn, không mấy tiếng tăm nhưng lại khá quen thuộc với ít nhiều khán giả đứng tuổi. Hôm ấy, Miyoko đứng bên ngoài tấm rèm của căn phòng tập như một kẻ vụng trộm, và tận mắt xem người ta tập múa. Cô lặng đi. Một sự rung động trong sâu thẳm, nhưng không tài nào cất tiếng. Miyoko mất nhiều giây lát để nắm giữ lại hơi thở, và rồi bật khóc. Sau khoảnh khắc như hớp hồn, Miyoko rên lên trong tim cảm khái về chất vị của chiều sâu khôn cùng của nghệ thuật…

Miyoko không biết. Cô không thể giải thích, cũng chẳng dám giải thích. Cô chỉ biết mình vừa trở về từ một sự hoà đồng tuyệt đối với những bước chân và điệu múa. Dù không có một trình độ, nhưng Miyoko biết mình đã đi vào một chiều sâu và trở về. Chỉ đơn giản là vậy.

Nhận thấy vẻ mặt và ánh mắt khác thường của Miyoko, người vũ công mà đặt may quần áo đã dành cho Miyoko một buổi trò chuyện cởi mở về nghề múa của mình. Không ngờ sau đó, họ đã chia sẻ một đồng cảm sâu sắc. Người vũ công này tên là Mori. Mori gợi ý cho Miyoko việc bắt đầu học múa. Mori giúp Miyoko gỡ bỏ e ngại bằng việc cho cô xem khiếm khuyết nơi bàn chân của mình: hơn một ngón chân đã vắng mặt từ lâu.

Miyoko xúc động, không ngừng rơi nước mắt. Kể từ khoảnh khắc đó, bức tranh cuôc sống của Miyoko mang một sự thay đổi, lặng lẽ, mà lớn lao.

Dần dà, từ việc chỉ bắt đầu như một người tham dự dè dặt, những biểu hiện đáng kinh ngạc của Miyoko khiến cô đã đến được với người thầy của Mori. Ông Higuchi là một bậc thầy. Ông âm thầm và khiêm tốn, nhưng chẳng dành cho ai quyền đánh giá về mình. Với ông, đỉnh cao nghệ thuật phải nằm trong nội tâm. Nhận thấy Miyoko như một hạt mầm, Higuchi nhận trao truyền nghệ thuật múa cho cô. Dầu Higuchi đã nghĩ, sự việc này không phải để dẫn tới sự sinh ra một nghệ nhân múa mới, mà có thể, Miyoko mãi mãi không bao giờ bước lên sân khấu. Nhưng Higuchi đã xác quyết về việc mình làm, dù không kèm theo một động cơ hợp lý. Ông chỉ nghĩ, múa cũng vậy, đã bắt đầu giai điệu, thì đôi chân sẽ cử động, xoay, múa, và thăng hoa…

Miyoko học múa chung với cả lũ trẻ. Sự nghiêm túc và tài năng của cô khiến cho người thầy mỗi ngày thêm một ngỡ ngàng. Dầu không đặt mục tiêu khổ luyện. Ấy vậy mà, cả Miyoko và thầy cô đã bị cuốn vào luồng khi nào không hay. Trong lặng lẽ, bức tranh cuộc sống của cô thợ may Miyoko thêm những đường nét mới.

Miyoko luyện tập tới nôn ói. Bàn chân toé máu, những vết chai sần dày lên theo thời gian. Ở ngưỡng tuổi 30, sức khoẻ và gân cốt không còn ủng hộ cô. Nhưng Miyoko dường như không lưu tâm một chút nào. Ngã, cô đứng dậy. Chảy máu, cô băng lại. Đau, cô trải qua nó với sự bình tĩnh và kiên định như từ trên trời rơi xuống. Tâm hồn cô hầu như chỉ biết đến luyện tập và thăng hoa.

Vào một ngày rất lâu, rất lâu, sau cuộc gặp quyết định với Higuchi, cô thợ may Miyoko vẫn vậy, nhỏ nhắn, và gày gò hơn nữa, đã trở thành một cô gái múa thực thụ. Ở nơi Miyoko, những ước lệ không còn hiệu nghiệm. Khoảng thời gian ước định mà một nghệ nhân múa cần để khiến mình trở thành, đã trở nên linh động không thể nắm bắt đối với Miyoko. Miyoko mang một chiều sâu không tuổi. Dường như cô có một sự tự do nào đó khác với chúng ta. Khi thời khắc chín như trái cà chua lịm đỏ, khi mây đã đổ mưa và nắng rào lên mặt đất, thì chẳng định kiến nào giữ nổi hiệu lực. Thay cho nỗi ngần ngại bao năm trở về trước, giờ Miyoko thực sự là một cánh cửa mở. Chẳng sự e ngại nào kiềm giữ nhịp chân con thiên nga ấy, chẳng định kiến nào ngăn cản đôi cánh ấy giang bay như sự phô diễn viên mãn những sắc màu ánh sáng. Miyoko đã hoá giải nghi ngại âm thầm trong bao năm của Higuchi. Và một ngày đẹp trời, ông tuyên bố Miyoko sẽ bước lên sân khấu lần đầu tiên như một thành viên chính thức của Mặt Trăng. Và điều đặc biệt hơn cả, Higuchiđã dành cho Miyoko một điệu múa mà cô sẽ là nhân vật chính, điệu múa mang tên: “Vũ điệu”.

Sau bao nhiêu năm trời, Mặt Trăng vẫn là một đoàn múa nghèo, nhỏ, và khiêm nhường. Hôm ấy, Mặt Trăng công bố biểu diễn với sự xuất hiện đặc biệt của Miyoko. Tuy không có quy mô lớn lao và quảng cáo rầm rộ. Nhưng với thực lực và sự quen thuộc lâu năm với lượng khán giả nhất định, buổi diễn hôm ấy đã có rất nhiều người đến với Mặt Trăng, chờ đón thưởng thức sự cống hiến của một nghệ nhân chưa bao giờ xuất hiện.

Trước khán phòng kín chỗ, Higuchi giới thiệu về Miyoko, một cô gái múa lạ kỳ. Dầu không định trước là sẽ nói thật nhiều, nhưng niềm xúc động đã dẫn dắt Higuchi nói nhiều hơn ông đã tưởng. Và sau lời kết, ông khóc. Khán phòng lặng im.

Âm nhạc nhẹ nhàng, từ từ vang lên. “Vũ điệu” bắt đầu….

Cả khán phòng im lặng, lắng hồn vào trong âm nhạc. Trăm đôi tai, trăm đôi mắt, và cả trăm tâm hồn, tất cả quyện hoà cùng vũ điệu.

Bỗng, đâu đó từ giữa nơi khán giả, khẽ bật lên tiếng nức nở, như những giọt âm thanh từ giếng sâu vô tận. Tiếng nức nở mau dần xen lẫn tiếng nấc, nhịp nhàng ti tỉ như ai đó đang không tài nào ngăn hãm được niềm xúc động. Chung quanh là bầu im lặng chứng nhân. Cả khán phòng hướng về phía tiếng khóc. Nửa tò mò nửa rung động, không ai nỡ chen vào một âm thanh khác. Đồ rằng ngay cả những trái tim cũng không nỡ đập những nhịp riêng rẽ, mà tất cả như cùng một mạch thở. “Vũ điệu” vẫn thăng hoa và giai điệu như lắng dần về một thứ im lặng như chất nền tinh tế của mọi hoà quyện.

Đó là tiếng khóc của Miyoko, một phần linh hồn của cô đang lặng lẽ như một “người xem” dưới khán đài. Tiếng thổn thức dài mãi, không to không nhỏ, ti tỉ và bất tận. Cô dõi theo điệu vũ, và niềm hạnh phúc chín muồi của Higuchi. Cô chứng kiến hoá thân của cô gái Miyoko như đoá hoa diên vỹ hiến mình trong vũ điệu. Những tháng năm đã qua cất lên tiếng hát của mình. Những điều kỳ diệu hiển bày đậm nét trước một Miyoko vừa nhận ra mình như một chứng nhân vĩnh cửu.

Cô gái Miyoko tiếp tục múa. Từ đôi mắt cô, cuộc sống và nội tâm không còn ngăn cách. Dưới khán đài, những khán giả cũng dần bật khóc, như một sự lan truyền. Chỉ biết, những giọt nước mắt lung linh trong một tối khuya, đã làm nên một thứ ánh sáng cho góc phố nơi gánh múa Mặt Trăng biểu diễn. Thứ ánh sáng mà chỉ Miyoko mới thấy. Hoặc có thể, ai đó khác cũng sẽ thấy, nhưng chắc chắn, phải là những tâm hồn im lặng, hơn nữa, còn phải là những kẻ ngủ khuya nữa…

(Truyện ngắn đầu tiên, 27-11-2018)

Chia sẻ:
Bài thơ "Trời sẽ sáng"

Những nốt giáng cuối cùng
Sẽ thay bằng nốt thăng
Những bóng đêm cuối cùng
Sẽ thay bằng ánh sáng

Những tình đời ai oán
Sẽ thay bằng cụng ly
Con khỉ cười khì khì
Ngay sau dòng nước mắt

Những tin vui lượm lặt
Về theo nhau trên đường
Những nếp nhà cô đơn
Kề nhau trong đêm vắng

Ai đêm thâu thức trắng
Sẽ tròn giấc thuỵ miên
Ai mong mỏi an nhiên
Sẽ về nơi suối mát

Tâm hồn ai lưu lạc
Sẽ tìm thấy quê hương
Trái tim thiếu tình thương
Sẽ lấp đầy hạnh phúc

Vết thương sẽ thôi thúc
Nở ra những vần thơ
Tình yêu sẽ bất ngờ
Mọc lên từ gỗ đá

Từ đớn đau vất vả
Toát những giọt kim sa
Từ mắt ai nhạt nhoà
Sáng lên đầy hy vọng

Mọi ước ao trông ngóng
Sẽ thoả nguyện đầy tay
Tóc em sẽ nhẹ bay
Trong nắng thu hồng nhạt

Hãy an lành ca hát
Bởi bên cạnh có ta
Hãy ngủ ngon nhé và
Đừng quên, trời sẽ sáng... 
(26-10-2021)

Để đáp lại câu hỏi của một bạn đọc vì sao lại có hình ảnh “Con khỉ cười khì khì” ở khổ thơ thứ 2, tôi xin phép viết đôi chút tự sự về bài thơ. 🙂

Bài thơ “Trời sẽ sáng”, được viết trong sự chuyển giao tâm trạng của tôi, giữa ưu tư và hy vọng. Sự chuyển mình đó như một nốt luyến nhỏ, trên nền nhạc muôn thủa của nhân gian, nơi ai cũng chứng kiến mình cùng vạn hữu, trải qua muôn trùng những vòng lặp, giữa “đêm” và “sáng”, giữa “giáng” và “thăng”.

Thế, nên trong suốt bài, những hình ảnh thường tượng trưng cho sự đối lập, và chuyển pha giữa các cung bậc, cũng lần lần hiện ra trong tâm trí tôi. Có lẽ, người viết của một bài thơ, lại là người sẽ yếu nhất trong khả năng phân tích tính “logic” trong bài thơ của mình. Chắc tôi cũng như vậy. Thay vì diễn đạt được thật rõ tính hợp lý của mọi chi tiết, tôi lại chỉ có thể thiết tha nói rằng: “Tôi đã cảm thấy như vậy!”. Nếu khi đó, tâm của tôi hướng về logic, có lẽ, nó sẽ tạo ra những câu thơ khác. Nhưng, “Trời sẽ sáng” là bài thơ dường thuần tuý cảm xúc, và tâm cảm của tôi khi ấy, dường tự chọn từ ngữ để biểu đạt mình.

Vì thế, thay vì giải thích sự xuất hiện của “con khỉ” một cách hợp lý, tôi lại xin phép thiên về diễn đạt tâm cảm của mình hơn.

Khi những trầm ưu… “chín tới”, thì, bất khả tránh né, cung đường của nó sẽ là dồn nén trĩu nặng và gồng nén tới mức, tại một ngưỡng nào đó, lại chuyển mình sang pha đối lập. Tại thời điểm, khi những hy vọng bắt đầu loé lên, khi những thanh bình bắt đầu mở cửa, thì, ngay sau những gánh gồng của tâm trí, lại là sự đến bất ngờ của những âm thanh, hay hình hài “đối trọng” với sự trì nặng vừa chớm qua. Nên, để “đối trọng” sự ai oán của tình đời, thì hình ảnh “cụng ly” đã thay thế, vừa vui vui, vừa mang hàm ý hoà bình, hoá giải. Đến lượt con khỉ và tiếng cười khì khì của nó, kiểu khóc lóc nửa cá sấu, nửa “nghiêm trọng” đầy đáng thương của nó, cũng rất nhanh, đã “điểm danh” trong tâm trí tôi. Dù bất kể vì sao, thì nó cũng thật đã xuất hiện, khiến ai đang ưu tư chắc cũng phải bật cười, vì thế, mà…biến veo một miền ưu cảm.

Thế nên mà nó đã xuất hiện, tại “phần ngọn” là lời. Còn phần gốc, đó chính là bởi trong “não” tôi, đã tự hướng mình về phía của nhẹ tênh, của nụ cười, của lạc quan, và của hy vọng. Nhưng, cũng đâu dễ dàng lắm. Khi xoá một màu nâu, dù có tô bằng trắng, thì ban đầu, trắng vẫn mờ, và nâu vẫn đậm. Khi thay giáng bằng thăng, cũng phải có nốt luyến. Phiền ưu cũng có quán tính, nên những mâu thuẫn, những “đừng” và “hãy”, những do dự trong hồn ngay cả khi tâm đã xác quyết, vẫn không ngừng đẩy đưa, chao động. Nên, “con khỉ” đâu chỉ cười khì khì mà thôi, còn có cả nước mắt nữa. Trong câu thơ này, vừa có hình ảnh vui, là con khỉ cười khì khì sau dòng nước mắt, vừa lại không chỉ là như thế. Dòng nước mắt ấy, của con khỉ cũng có, và của…tôi cũng có. Tôi khóc, xong nó cười. Nó cười, và tôi cũng cười…theo nó. Tôi cười sau nước mắt của mình. Đó là giây khắc khi nặng trĩu được hoá giải, “trầm trọng” bỗng… “nhẹ tựa mây”. Đôi khi chúng ta thấy, nhiều phiền não của chúng ta cũng…đáng bật cười lắm, thật mà!

Đương nhiên, ngoài những “sự” trên, thì còn một sự nữa góp phần cho “con khỉ cười khì khì” ở đó, đó là sự thuận vần với “cụng ly” ở dòng trên. Nhưng tới đây, tôi chẳng thể giải thích được hơn nữa. Chỉ biết, rất nhanh trong tâm cảm, con khỉ đã “xẹt qua”, kịp khóc, và lại kịp cười trong tôi như vậy đấy! 🙂

Và, những tương phản giữa nặng và nhẹ, giữa trầm và thăng, tiếp tục đan xen trong những khổ kề sau.

“Những tin vui lượm lặt
Về theo nhau trên đường
Những nếp nhà cô đơn
Kề nhau trong đêm vắng…

…Mọi ước ao trông ngóng
Sẽ thoả nguyện đầy tay
Tóc em sẽ nhẹ bay
Trong nắng thu hồng nhạt”

Tới đây, nốt luyến của tôi, đã không đơn lẻ nữa rồi. Nó đã được thấy, cùng sự chuyển mình rộn ràng, mạnh mẽ, khắp khắp nhân gian. Bây giờ, là sự nương vào quy luật biến dịch của nhân gian, cho chúng ta được thốt lên những lời nguyện mong tốt lành cho nhau.

Nào, cùng tôi đọc khổ cuối nhé:

“Hãy an lành ca hát
Bởi bên cạnh có ta
Hãy ngủ ngon nhé và
Đừng quên, trời sẽ sáng…”

Lúc này, cái vui, niềm hy vọng, đã sắp “chín” như mặt trời trước ngưỡng bình minh. “Ta”, chính là tôi khi này, đã rất xả lòng để đi vào giấc ngủ. Không chỉ đã thấy lại niềm tin yêu, và lạc quan cho mình. “Ta”, còn thấm được sự an lành đến nỗi, tưởng chừng có thể đem nó mà trao đi trong gió, mà ru hời, mà vỗ về, và khích lệ nhân sinh. Vì thế, mà “ta” đã “xin” mọi người “hãy an lành ca hát”, như một trấn an, mà chẳng thể đưa ra một căn cứ “bảo kê” nào, ngoài nói rằng:

“Bởi…
bởi…
bởi bên cạnh có ta”

Cũng không sao! Dù thế nào đi nữa, khi một tâm hồn trở nên an lành, thì tôi tin, nó cũng có thể góp được sức của mình, vào sự an lành và bình yên, cho tất cả…

(28-10-2024)

Chia sẻ:
Bài thơ "Chiều sân ga"
Hà Nội mùa thu
Mai mua bánh cốm
Lặng đi bên chàng
Tiễn đến sân ga

Chẳng ai nói ra
Một lời từ biệt
Mỉm cười trên miệng
Hiu hắt trong tim

Anh cũng im lìm
Và Mai cũng thế
Tiếng còi nhe nhẹ
Giục khẽ bên tai...

Ga chiều đợi ai
Nén từng hơi thở
Đoàn tàu nhắc nhở
Hành khách cuối cùng

Và rồi, cuối cùng
Anh rồi cũng nói
"Anh về Nam nhé
Mai mạnh giỏi nghe"

Tàu chuyển bánh xe
Mai dồn nhịp bước
Không sao thốt được
Mắt chẳng rời nhau

Tàu lướt thêm mau
Bất ngờ Mai chạy
Bàn tay vội vã
Nắm kịp tay anh

"Mai, hãy nghe anh
Mùa thu còn mãi
Mùa thu còn mãi
Hãy về đi em!"

Mai nhìn theo anh
Tàu đi xa mãi
Mai gọi tên anh
Tàu đi xa mãi

Sân ga khuất dần
Lòng anh tê tái
Anh gọi tên Mai
Chẳng gì vọng lại...

Bài thơ này tôi viết năm 2018. Là một trong những bài thơ tôi rất thích. Không hiểu sao, tôi rất rung động trước những mối tình Nam Bắc, mà người anh là con trai Sài Gòn, người em là con gái Hà Nội.

Trong tưởng tượng của tôi, luôn có hình ảnh một người con trai ưu trầm, lặng lẽ, và người con gái nhẹ nhàng, mơ mộng. Họ yêu nhau, một cái yêu ngại ngùng, ngút sâu và khó hiểu, như những gió mùa thu.

Bài thơ là chuyện kể, về một mối tình như thế. Nó là mối tình, mà không phải cuộc tình. Bởi mối tình này không đầy vẹn. Nó như những xúc cảm tình yêu không bến đỗ, táp vào tim vừa ào ạt, vừa chập chờn, mà chính ngay đôi trai gái cũng còn không hiểu nổi. Nó, có chăng là nhớ thương, từ tiềm thức tạc vào tháng 9, vang động tâm hồn người con trai, người con gái, tới tấp nhanh, tới tấp sâu, để rồi chính họ không kịp nhận ra, và dặt dè đối diện.

Để rồi, chẳng ai đã nói, chẳng một lời yêu đã thốt ra. Chỉ có im lặng, cho đến buổi chia ly…

Bài thơ là câu chuyện yêu ngắn ngủi. Đến giây phút cuối cùng chia ly giữa sân ga, khi đoàn tàu đã chuyển bánh và cất lên lời giục, thì tiếng lòng vẫn phong kín trong tim. Hình như, đây cũng là “cách yêu” của nhiều đôi trai gái. Mơ hồ mà day dứt, thiết tha mà không ai thừa nhận. Cho đến khi, cho đến khi, tiếng còi tàu giục giã. Có lẽ khi ấy, nhịp tim và tiếng lòng cũng rần lên như thế, nhưng hai tâm hồn vẫn không thể…

…đánh rơi sự im lặng.

Cho đến khi, cho đến khi…

…đoàn tàu giục hành khách cuối cùng…

…Anh đã bước lên toa…

Thì trong tưởng tượng của tôi, vẫn thấy anh đứng nơi cánh cửa, nhìn Mai, nhìn Mai với ánh mắt như muốn thoát ra ngàn lời. Còn Mai, bước chân hối dần với nhịp chuyển bánh xe, đôi mắt vẫn lặng im nhưng trái tim ùa tới. Nhưng, hình như đâu đó cô vẫn chờ, một phá vỡ, một phá vỡ, nơi nỗi lòng ngăn ngại.

Và rồi, cuối cùng, sự chờ đợi ấy cũng nghe anh nói:

“Mai mạnh giỏi nhé, anh về Nam nghe”

Anh đã mở lời. Nhưng tiếc thay, đó là một lời chia tay, và chúc nhau mạnh giỏi. Điều gì sau lưng đó, đã bị anh ghìm lại. Phải thế chăng?

Nhưng…

Cô gái dù vẫn lặng yên không nói, nhưng bước chân đã thúc giục trái tim. 1, 2, 3, rồi cô bất ngờ chạy, vội vã theo kịp nắm lấy tay anh. Nó có nghĩa, bàn tay anh cũng đã ở sẵn, và đợi chờ Mai tự bao giờ.

Cái nắm tay của Mai như sự vỡ oà xâm chiếm tim anh, khiến nó thốt lên: “Mùa thu còn mãi! Mùa thu còn mãi!”

Nhưng, rồi sao nữa. Tôi cũng không biết, đó là một lời nhắn gửi, một lời hẹn dành cho Mai. Hay sau câu nói “Mùa thu còn mãi”, sẽ chỉ là khoảng trống, vô biên bất tận?

Tại sao, anh không xuống khỏi đoàn tàu? Tại sao? Anh không xuống với Mai, để hai người bắt đầu một câu chuyện tình? Điều gì còn giữ anh lại? Phải chăng, sự phong kín đã in vào tiềm thức, khiến trong giây phút đó, sự vỡ oà cũng chẳng thể lớn hơn một nhịp thốt trong tim. Anh vẫn quay về Nam, để lại Hà Nội, để lại Mai như hình ảnh sau lưng, như những chuỗi ngày mến thương trong tâm cảm. Liệu, mùa thu sẽ nối tiếp trong tình yêu của họ, hay nó sẽ “còn mãi”, nhưng chỉ trong một ký ức xa, trong một niềm thương nhớ…

Tôi không hiểu, và Mai cũng thế.

Để rồi,

“Sân ga khuất dần

Lòng anh tê tái

Anh gọi tên Mai

Chẳng gì vọng lại. . .”

Rồi thì, anh đã gọi tên cô. Nhưng, đó chỉ là tiếng thầm gọi nơi cõi lòng day dứt. Ích gì đâu, tàu đã rời ga. Giữa anh và Mai, chỉ còn một bầu trời khoảng trống. Một cánh cửa cuộc đời, lặng lẽ ngang qua…

Có lẽ, trong cuộc đời, đâu đó có rất nhiều tình yêu dở dang, những tâm hồn do dự. Thậm chí, người anh trong bài thơ này, ai nói chắc, là anh ấy không tự đưa mình vào cảnh chia ly như một phương cách làm nên sự đã rồi, để rồi dẫu day dứt khôn nguôi, vẫn hơn là đối diện. Một đặc tính của tình yêu, của hồn người, cũng chính là khó hiểu, mâu thuẫn, và đầy nghịch lý. Hoặc có lẽ, tình yêu bên trong hai con người này, khuyết chứ chẳng đầy. Hoặc, nó chỉ là thứ tần sóng mùa thu, thiết tha và bất diệt, để rốt cùng, họ chọn yêu nhau trong – hoài – niệm – mà – thôi…

(2-10-2021)
Chia sẻ:

ABOUT ME

"Khi ngôn ngữ chưa tới, 
thơ đã ở đấy rồi"

"Với tôi, 
thơ là của các vì sao"

(Hạnh Dung)
 

SOCIAL MEDIA

NHẬN TIN QUA EMAIL

BÀI VIẾT NỔI BẬT